Blog

Tìm hiểu về giọng hát và cách luyện giọng như ca sĩ

17/08/2020
 Giọng nói là một cơ quan phức tạp, có một tầm phát âm thật rộng lớn. Nhiều ca sĩ không qua trường lớp vẫn có một giọng ca tự nhiên tuyệt vời. Tuy nhiên những ca sĩ có kiến thức về cách phát âm và hiểu rõ bộ máy này còn gặt hái những kết quả tốt hơn. Sau nhiều năm ca hát, bạn có thể phát triển và duy trì thanh giọng, học cách phòng tránh và sửa chữa những khó khăn của mình.
Tìm hiểu về giọng hát và cách luyện giọng như ca sĩ
 Phương pháp luyện giọng của Anne Peckham sẽ giúp chăm sóc và nâng cấp chất lượng giọng hát của bạn lên mức độ cao hơn, giúp bạn hiểu rõ những yếu tố cơ bản của bộ máy phát âm, hỗ trợ bạn nắm vững kỹ thuật tập luyện, phân biệt được từng thành phần giọng ca. Nó cũng giúp bạn nắm vững chúng và mở rộng ưu thế từng chi tiết để giúp bạn đạt th ành một giọng ca hoàn chỉnh.
Qua kinh nghiệm dạy thanh nhạc nhiều năm, Anne Peckham đã từng gặp những chuyện hoang đường về luyện giọng. Một trong những chuyện hoang đường ấy là ca sĩ hát nhạc phổ thông không qua trường lớp. Nhiều ca sĩ trẻ đã ngạc nhiên thấy rằng không ít ca sĩ không luyện giọng đã phải sớm rời bỏ sự nghiệp sau một thời gian ngắn, chỉ vì bộ máy phát âm của họ bị thương tổn. Ngay cả những ca sĩ dày dạn, có những thói quen không đúng, đôi khi cũng phải tập hát trở lại vì không muốn bộ máy phát âm của họ bị hư hỏng vĩnh viễn.
 Các thể loại âm nhạc như Pop, Rock, Thánh ca, Country và ca kịch đòi hỏi phải hát lớn trong một thời gian dài sẽ làm cho giọng ca mệt mỏi. Bạn sẽ gặp thêm vấn đề nếu địa điểm trình diễn khô khan, bụi bặm, đầy khói và trong một đám đông náo nhiệt.
Nếu hiểu rõ giọng mình, bạn sẽ phát triển và kiểm soát cách thở đúng, xướng âm đúng cách và cải tiến giọng ca qua việc nâng cao thể lực và âm lực. Bạn sẽ được hướng dẫn phương pháp làm giảm thiểu độ căng của âm giọng, hiểu rõ môi trường xung quanh ảnh hưởng thế nào tới giọng ca của mình. Hiểu rõ giọng ca sẽ giúp bạn loại bỏ thói quen phát âm sai.
 Giọng ca chịu tác dụng của cảm xúc, thới quen ăn uống, ngủ nghê, sử dụng dược phẩm, chất kích thích và thói quen nói năng. Giọng ca còn tuỳ thuộc vào thể lực và sinh lực của bạn. Học cách chăm sóc giọng ca và phát triển thói quen luyện tập tốt sẽ giúp bạn bảo toàn giọng ca suốt đời.
Một câu chuyện khác nữa là do thiếu luyện giọng, nhiều ca sĩ đã đánh mất chất giọng độc đáo, tự nhiên của mình. Ngược lại luyện giọng sẽ giúp bạn giữ vững bộ máy phát âm và nâng chất giọng tự nhiên của bạn lên tới mức tốt nhất. Làm chủ được giọng ca tự nhiên của chính mình hay nhất. Sự chủ động này còn giúp bạn hiểu rõ những khu vực cần cải tiến, những thới quen có hại cho sự lâu bền của giọng mình. Thật vậy, nhiều ca sĩ pop chuyên nghiệp đã thành đạt theo cách phát triển và bảo quản được giọng ca của họ. Những bài học này chẳng những không làm bạn đánh mất chất giọng độc đáo của mình mà còn giúp bạn nắm vững cách điều khiển và nâng cao nó.
 Phương pháp phát âm nào là tốt nhất? Mọi ca sĩ giải thích quy trình phức tạp hát ca theo một cách khác nhau, sử dụng những thuật ngữ riêng và nói nhiều đến các thành phần cơ thể cũng nhưng các khái niệm sư phạm. Phương pháp thanh nhạc tốt nhất là phương pháp thực tiễn, thích hợp, có cơ sở khoa học, sử dụng những bài tập có mục đích rõ ràng và phù hợp với ca sĩ.

MC - Diễn viên Đại Nghĩa đang trong phòng thu âm Thu âm Việt
 Tuy nhiên bạn đừng quá lo ngại bởi các chi tiết kỹ thuật khi học hát. Những kiến thức về cơ thể học và về âm học sẽ giúp bạn trở thành một ca sĩ tài ba, biết vận dụng tối đa giọng ca tự nhiên của mình.
Lấy hơi trộm là khi đuối hơi là ca sĩ tự động lấy hơi (mặc dù trong bản nhạc không cho phép) nhằm đáp ứng được câu hát. Bạn có thể lấy hơi thật nhanh cả bằng mũi và mồm, nhưng vẫn phải đảm bảo thời gian, đúng nhịp để vào câu hát tiếp theo.
Theo tôi bạn nên chuẩn bị trước khi lấy hơi sẽ chủ động hơn. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp bất đắc dĩ, các bạn nên lấy hơi đúng chỗ, đúng lúc.
Một điều các bạn cần chú ý khi hát chỉ nên lấy hơi bằng mũi thì sẽ lấy hơi được sâu, tuyệt đối tránh lấy hơi bằng miệng sẽ không tốt cho cổ họng, hát xong nên uống 1 cốc nước nóng, tuyệt đối không được uống nước lạnh vì như thế sẽ làm co rút dây thanh quản, khá nguy hiểm.

Luyện thanh 
Các yếu tố ngữ âm trong âm tiết tiếng Việt I.
Như đã biết, học thanh nhạc, ngoài việc tập luyện một số kỹ thuật cơ bản, còn phải học cách xử lý ngôn ngữ sao cho âm thanh lời ca phát ra nghe đ ược rõ ràng và bảo toàn tính thẩm mỹ của ngôn ngữ từng dân tộc. Muốn xử lý ngôn ngữ Việt Nam, trước hết chúng ta phải biết sơ lược về các yếu tố ngữ âm cấu tạo n ên từng tiếng, từng chữ (từng âm tiết) của ngôn ngữ Việt Nam.
Ca sĩ Ngọc Trân là một gương mặt quen thuộc trong các ca khúc Dân ca trự tình

1. Tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ đơn vận (đơn âm, đơn lập) nhưng lại đa thanh.
a. Đơn vận :
Là mỗi tiếng, mỗi chữ chỉ gồm có một vần, nên khi nói rời từng tiếng, khi viết rời từng chữ, các vần các chữ không dính kết lại với nhau như một số ngôn ngữ khác. Câu thơ lục bát của Nguyễn Du: 
"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau"
(Truyện Kiều)
Gồm 14 vần, 14 âm tiết, viết và đọc tách bạch nhau, không dính kết lại với nhau.
b. Đa thanh :
Là nhiều thanh điệu, nhiều dấu giọng. Cụ thể là có 6 thanh điệu, được ghi bằng 5 ký hiệu khác nhau: dấu sắc (Á), dầu huyền (À), dầu hỏi (Ả), dầu ngã (Ã ), dấu nặng (Ạ). (Gọi tắt là 5 dấu 6 giọng). Không có dấu gọi là thanh-điệu "ngang".
2. Mỗi tiếng (mỗi âm tiết) có 3 yếu tố là âm đầu, vần và thanh điệu.
Thí dụ trong chữ TOÀN 
T là âm đầu
OAN là vần
Ø là thanh huyền
(3 yếu tố này được thấy rõ, chẳng hạn trong lối nói lái của Việt Nam:
Thí dụ :
- Bí mật : - Bật mí : đối vần, đổi thanh
- Bị mất : đối thanh
- Mất bị : đối âm đầu + đối vần ...). 
Trong 3 yếu tố đó, thì VẦN lại gồm 3 yếu tố khác : âm đệm + âm chính + âm cuối.
Trong vần OAN, O là âm đệm, A là âm chính, N là âm cuối.
Vậy trong một âm tiết gồm tất cả 5 yếu tố :
- Âm đầu
- Âm đệm
- Âm chính
- Âm cuối
- Thanh điệu (là yếu tố ảnh hưởng lên toàn âm tiết)
Ta có sơ đồ các yếu tố của âm tiết nh ư sau :
Thanh điệu (5)
Âm đầu Vần
(1) Âm đệm
(2) Âm chính
(3) Âm cuối
3. Ví trị âm đầu do các phụ âm đảm nhận, gọi là các phụ âm đầu
a. Đặc tính của các phụ âm là tự nó không phát ra âm thanh lớn được, mà cần kèm theo một nguyên âm, thì nó mới phát thành tiếng rõ ràng được. Khi đọc các phụ âm, làn hơi phải vượt qua một vật cản nào đó do tác động của môi lưỡi phối hợp, rồi mới đi ra ngoài theo đường miệng. Muốn đọc rõ các phụ âm thì phải cấu âm cho đúng cách, bằng cách tạo các điểm cản làn hơi bằng môi hay lưỡi (hình 8, 9, 10).
b. Các phụ âm đầu Việt Nam gồm : B, C, CH, D, Đ, G (GH), GI, H, (K), KH, L, M, N, NH, NG (NGH), PH, Q (U), R, S, T, TH, TR, V, X.
Nếu phận loại dựa theo cách cấu âm, ta sẽ có 5 loại chính :
* Phụ âm môi :
- môi + môi : m - b ; (p) : bình minh
- môi + răng : v - ph (f) : vi phạm
* Phụ âm đầu lưỡi :
- đầu lưỡi + răng trên : t - th : tinh thần
- đầu lưỡi + hàm răng khít : x : xinh xắn
- đầu lưỡi + chân răng-vòm cứng: n - đ - l : nó đẹp lắm
- đầu lưỡi cong + vòm cứng : (l) - r - tr - s : rộn ràng, trong sáng
- đầu lưỡi rung + vòm cứng : r (r rung hơi khác với r mềm ở hàng trên) : run rẩy, rung rinh
- đầu lưỡi bẹt + vòm cứng : d - gi : dòng giống
* Phụ âm mặt lưỡi :
-mặt lưỡi + vòm miệng : ch - nh : chi nhánh
* Phụ âm cuống lưỡi :
- cuống lưỡi ngoài + vòm mềm : kh - g (gh) : khiêng gánh
- cuống lưỡi trong + vòm mềm : ng (ngh) - c (k,q) : ngông cuồng, nguy kịch quá
• Phụ âm thanh hầu :- cuống lưỡi thụt về phía sau để thu hẹp thanh hầu : h : hầu hạ.
Lưu ý :
- âm l có thể cấu âm ở cả 2 vị trí. Đối với người thường đọc lộn l ra n, và n ra l thì nên dùng l cong lưỡi để tập luyện. Không nên cong lưỡi quá, sẽ không tự nhiên.
- âm r mềm ở hàng trên đọc gần giống như chữ j trong tiếng Pháp. Còn r rung thường gặp ở miền Trung, chỉ nên dùng để đọc các chữ diễn tả sự rung động nh ư : rung rinh, run rẩy, run run ... và để đọc các chữ r của tiếng La-tinh như Ma-ri-a, Ro-sa ...
c. Có một số âm tiết không có phụ âm đầu nh ư ăn, uống, an ủi ... còn đa số các âm tiết đều có phụ âm đầu. Muốn cho rõ tiếng, cần tập : "bật môi, đánh lưỡi" cho đúng cách. Vai trò của lưỡi quan trọng nên người ta khuyên nên "đánh lưỡi bảy lần trước khi nói" là vậy.
4. Vần lại gồm 3 yếu tố khác : âm đệm + âm chính + âm cuối
a. Âm đệm :
Được ghi bằng bán âm u hoặc o. Đây l à âm làm tròn môi trước khi đọc âm chính, làm cho âm tiết có âm sắc trầm tối (gọi l à bán âm, vì mặt chữ thì giống như nguyên âm, nhưng công dụng lại không giống như nguyên âm).
- Chính tả ghi bằng u trước các nguyên âm vừa hoặc hẹp (uê, uơ, uya).
- Chính tả ghi bằng o trước các nguyên âm rộng (oa, oe) trừ khi trước nó là phụ âm q thì lại ghi bằng u (qua, que = koa, koe).
- Vì âm đệm là âm tròn môi, nên nó không đi trước các nguyên âm tròn môi o, ô, u nữa.
- Khi phát âm, không được dừng lâu ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm chính ngay.
b. Âm chính : Vị trí âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm
- Nguyên âm : là những âm tự nó phát ra âm thanh mà không cần nhờ tới một âm nào khác : làn hơi từ phổi ra qua thanh đới mở-đóng tạo cao độ của âm thanh, còn hình thể các khoang họng và khoang miệng khác nhau, do hoạt động của l ưỡi và hàm dưới, sẽ tạo ra các nguyên âm khác nhau (hình 11).
- Phân loại : có hai loại nguyên âm chính là nguyên âm đơn (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, e, ê, i/y) và nguyên âm phức (ia (iê), ưa (ươ), ua (uô)).
* Dựa trên vị trí của lưỡi, người ta còn phân ra :
+ Nguyên âm hàng trước (lưỡi đưa ra trước, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt) : e, ê,i/y, iê (ia).
+ Nguyên âm hàng giữa (lưỡi nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không bẹt, không tròn) : a (ă), ơ (â), ư, ươ (ua).[1]
+ Nguyên âm hàng sau (lưỡi rụt về sau, âm sắc tối, trầm, môi tr òn) : o, ô, u, uô (ua).
* Dựa trên độ mở của miệng, ta có 4 loại :
+ Nguyên âm rộng : e, a, o (âm lượng lớn)
+ Nguyên âm vừa : ê, ơ, ô (âm lượng vừa)
+ Nguyên âm hẹp : i, ư, u (âm lượng nhỏ)
+ Nguyên âm hẹp mở qua vừa : iê, ươ, uô (âm lượng nhỏ và lớn dần đến vừa)
Ghi chú :
- ă là âm ngắn của a
- â là âm ngắn của ơ
- o và ô đôi lúc có dạng âm dài là : oo, ôô (xoong, bôông) ia, ua, ưa là âm phức không có âm cuối (Td: chia, chua, chưa )
- Âm chính cùng với thanh điệu là hai yếu tố tối thiểu phải luôn luôn có mặt trong âm tiết, nếu không sẽ không có âm tiết : ả, ổ, ố ...
c. Âm cuối :
Vị trí âm cuối do các bán âm cuối và phụ âm cuối đảm nhận.
* Bán âm cuối có 2 loại :
- Bán âm cuối bẹt miệng (lưỡi đưa ra trước) được ghi bằng i hoặc y :
+ Được ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â : ăy, âu (hãy lấy : đáng lẽ ra chính tả phải ghi "hẵy" mới đúng ngữ âm).
+ Được ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không bẹt miệng (tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trư ớc, bẹt miệâng) : ai ơi, ưi, ươi (ai # ăy) oi, ôi, ui, uôi.
- Bán âm cuối tròn môi (lưỡi rụt vào trong) được ghi bằng u hoặc o :
+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tr òn môi)
+ Được ghi bằng u sau các âm ngắn : âu, ău (trâu, t àu : đáng lẽ chính tả phải ghi "tằu" mới đúng ngữ âm)
+ Được ghi bằng u sau các âm vừa v à âm hẹp : du, ưu, ươu, êu, iu, iêu (yêu)
+ Được ghi bằng o sau các âm rộng a, e = ao, eo (ao # ău)
Lưu ý : khi gặp ay thì phải phân tích là ăy, khi gặp au thì phải phân tích là ău
* Phụ âm cuối gồm 8 âm chia l àm 4 cặp như sau :
- Phụ âm môi : m - p (đóng tiếng bằng 2 môi) : làm đẹp, rập rạp ...
- Phụ âm đầu lưỡi : n - t (đóng lưỡi lên chân răng) : ban hát, sền sệt ...
- Phụ âm mặt lưỡi : nh - ch (đóng mặt lưỡi lên vòm miệng) : chênh chếch, rách, rình
Lưu ý : nh - ch chỉ đi sau các nguyên âm hàng trước e - ê - i : enh ech, ênh êch, inh ich. Do đó, khi chính t ả ghi anh, ach, ta phải phân tích l à enh ech mới đúng.
- Phụ âm cuống lưỡi : ng - c (đóng cuống lưỡi lên vòm mềm) : vang, dốc, vằng vặc ...
Lưu ý : khi ng - c đi sau các nguyên âm hàng sau o - ô - u, thì không phải chỉ đóng cuống lưỡi, mà còn phải đóng ngay cả 2 môi nữa (ta phải ộc tiếng làm cho 2 má hơi phồng lên để tạo khoảng vang trong miệng).
Ghi chú :
- Các phụ âm cuối p, t, ch, c chỉ đi với thanh điệu sắc hoặc nặng, l àm cho vần phải đọc dứt sớm hơn các vần đóng cùng loại, cổ thi gọi các vần đó l à vần chết (tử vận).
- Khi vần có các âm cuối, thì âm chính ít nhiều bị ảnh hưởng - nó làm cho độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại.
- Các vần có âm cuối gọi là VẦN ĐÓNG, các vần không có âm cuối gọi là VẦN MỞ.
5. Thanh điệu :
Gồm có sáu thanh : (1) ngang, (2) huyền, (3) ngã, (4) hỏi, (5) sắc, (6) nặng ; được ký hiệu phiên âm bằng số 1 - 6 theo thứ tự trên.
a. Thanh điệu là yếu tố thay đổi cao độ của âm tiết. Nó ảnh hưởng lên toàn bộ âm tiết, nhưng khi viết nó được ghi trên hoặc dưới âm chính là nguyên âm đơn. Gặp nguyên âm phức không kèm theo âm cuối thì nó được ghi trên yếu tố đầu của âm phức (thí dụ : Chúa, chìa, chừa). Nếu nguyên âm phức có kèm theo phụ âm cuối thì thường ghi thanh điệu trên yếu tố thứ 2 của âm phức đó.
Thí dụ : vướng, tiếng, chuồng.
b. Phân loại dựa tên âm vực : có 2 loại cao và thấp
- Âm vực cao : thanh ngang, thanh ngã, thanh sắc
- Âm vực thấp : thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng

c. Phân loại dựa trên âm điệu : có 2 loại bằng và trắc
- Âm điệu bằng : thang ngang, thanh huyền
- Âm điệu trắc : (không bằng phẳng)
+ Có đối hướng (gãy) : thanh ngã, thanh hỏi
+ Không đối hướng : thanh sắc, thanh nặng
Những hòa thanh quan trọng trong một bài hát mà bạn cần lưu ý

THỰC HÀNH
1. Tập đọc các nguyên âm đơn hàng trước, hàng giữa, hàng sau
- Phối hợp các phụ âm với các nguyên âm trên.
2. Tập đọc các âm cuối :
- Mai, măy, mao, mău, mam, máp, man, mát, mang mác ...
- Tai, tăy, tao, tam, tan, tang ...
- Mái, mắy, máo, mắu, mám, máp, mán, máng, mác. (Thay bằng các phụ âm đầu khác).
3. Tập phân biệt phụ âm đầu : xa # sa, la # na, tra # cha (thay các nguyên âm khác).
4. Tập phân tích ngữ âm tất cả các chữ trong bài "Khúc Nhạc Cảm Tạ" và tập đọc cho đúng cách cấu âm của từng chữ, nhất là các phụ âm đầu và âm cuối : "Tình Chúa cao vời, ôi tình Chúa tuyệt vời, Người đã yêu tôi, muôn đời đã thương tôi, thương tôi từ thuở đời đời. Người đã cho tôi tiếng nói tuyệt vời, âm thanh chơi vơi ru hồn phơi phới, tiếng nói yêu thương, bay khắp muôn phương, vang lên khúc nhạc cảm tạ ngàn đời" (56 âm tiết).
Phân tích theo mẫu sau đây :
Bảng phân tích ngữ âm và xử lý ngôn ngữ bài "Khúc Nhạc Cảm Tạ" (xem giấy đính kèm)
- Lúc đầu chỉ phân tích đến mục "âm cuối", còn "loại vần", và "xử lý cụ thể" sẽ điền vào, sau khi đã học bài xử lý ngôn ngữ.
- Xử lý cụ thể là xét vần đó hát như thế nào, mở đóng ra sao, đóng ở dấu nào cụ thể trong từng bài hát.

PHẦN THỰC TẬP
1. Tập các cơ bụng để hỗ trợ cho hoành cách mô :
- Đứng thẳng người : thẳng lưng, thẳng đầu, áp mặt hai bàn tay vào sau lưng để ngón cái nằm bên hông ngang thắt lưng.
- Đặt bàn chân phải sát đất hướng ra phía trước, chân thẳng, người thẳng.
- Rút chân phải về, bàn chân vẫn chạm đất, và đưa chân trái ra y như chân phải : 50 - 100 lần.
- Thân người không nghiêng qua nghiêng lại, không nhô lên nhô xuống (Bài tập này dùng để khởi động khi học thanh nhạc, hoặc để tập thể dục trong ng ày).
2. Tập lồng ngực :
- Hai bàn tay nắm lại, thẳng ra phía trước, song song mặt đất : thở ra từ từ.
- Hất mạnh hai tay ra phía sau, luôn thẳng cánh tay : hính nhanh v ào.
- Dừng lại một vài giây : nén hơi.
- Đưa hai tay ra phía trước như lúc đầu : thở ra từ từ ...
3. Tìm cảm giác điểm tựa của làn hơi :
- Lấy hơi vào như thường lệ.
- Làm như "thổi bụi" nhưng ngậm miệng (bịt mũi nếu cần) để cho hơi không thoát ra ngoài, nhưng hơi dội lại xuống hoành cách mô và tác động lên bụng, lên vùng xương chậu, làm căng các cơ ở xung quanh vùng đó. Đó được coi như điểm tựa của làn hơi trong khi chúng ta nói, nhất là khí phải nói cao, nói mạnh, nói có sinh khí.

Tổng lượt bình luận: {{totalComments}} - Tổng lượt trả lời: {{totalReplies}}


{{comment.users.user_name}} {{fanpageName}} Đã bình luận vào lúc {{comment.created_at}}

{{comment.content | PhoneAndEmailGuard}}

{{comment.content}}

{{comment.users.user_name}} {{fanpageName}}

{{reply.content | PhoneAndEmailGuard}}

{{reply.content}}

Có thể bạn quan tâm

Bạn muốn tư vấn?


Hãy để lại thông tin, chúng tôi sẽ liên hệ với bạn ngay!